Bài toán nhà giáo 20 năm chưa có lời giải thỏa đáng
Theo TSKH. Phạm Đỗ Nhật Tiến, cách đây 20 năm, trong Đề án của Chính phủ về xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trình Ban Bí thư Trung ương để làm cơ sở ban hành Chỉ thị 40, đã có nhận định trên cơ sở khảo sát thực tế là: Dù đã có những chuyển biến quan trọng về nhận thức, chỉ đạo và tổ chức thực hiện, nhưng đội ngũ nhà giáo còn nhiều yếu kém bất cập cả về số lượng, cơ cấu và nhất là về chất lượng và hiệu quả công tác, chưa đáp ứng kịp những đòi hỏi ngày càng cao của tiến trình đổi mới giáo dục trong giai đoạn mới.
Đến năm 2013, Nghị quyết 29 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục cũng nhận định: Đội ngũ nhà giáo bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
Mới đây, thực tế giám sát và đánh giá việc bảo đảm điều kiện về đội ngũ nhà giáo trong việc tổ chức thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông giai đoạn 2014-2022 cho thấy: Bên cạnh những kết quả, ưu điểm nổi bật của công tác xây dựng đội ngũ nhà giáo trong những năm qua vẫn tồn tại dai dẳng bất cập về động lực, năng lực và cơ cấu của đội ngũ trước yêu cầu đổi mới, đặc biệt là tình trạng thiếu giáo viên, bao gồm cả thiếu tổng thể và thừa, thiếu cục bộ.
"Như vậy bài toán nhà giáo dù được nhận ra từ 20 năm trước nhưng đến nay vẫn chưa có lời giải thỏa đáng. Có hai nguyên nhân cơ bản. Một là chế độ, chính sách về nhà giáo chưa có sự vận động phù hợp với yêu cầu ngày càng cao đối với nhà giáo khiến nghề dạy học thiếu sự thu hút cần thiết. Hai là quản lý nhà nước về nhà giáo cũng chưa có sự đổi mới để phù hợp với nhận thức mới về nhà giáo và nghề dạy học", ông Phạm Đỗ Nhật Tiến nhận định.
Nghiên cứu quá trình đổi mới trong mô hình quản lý nhà nước về nhà giáo trên thế giới, TSKH. Phạm Đỗ Nhật Tiến cho biết: Cho đến những năm 80 của thế kỷ trước, khi hệ thống giáo dục ở các nước đều có đặc trưng chung là công lập và chưa phức tạp như hệ thống giáo dục ngày nay thì quản lý nhà nước về nhà giáo được thực hiện chủ yếu theo mô hình quản lý nhân sự. Trong mô hình quản lý này, nhà giáo chỉ đơn thuần là người lao động, là viên chức, được cơ quan quản lý tuyển dụng, điều động, phân công và trả lương để thực hiện nhiệm vụ giảng dạy trong nhà trường công lập.
Vào hai thấp kỷ cuối của thế kỷ XX, với việc hệ thống giáo dục trở nên phức tạp cả về quy mô, cơ cấu và loại hình, thì quản lý nhà nước về giáo dục chuyển từ mô hình quản lý công truyền thống sang mô hình quản lý công mới. Còn quản lý nhà nước về nhà giáo chuyển từ mô hình quản lý nhân sự sang mô hình quản lý nguồn nhân lực
"Như vậy, nếu trong mô hình quản lý nhân sự, nhà giáo công lập chỉ đơn thuần là một viên chức phải tuân theo các quy định của người lao động hưởng lương nhà nước thì trong mô hình quản lý nguồn nhân lực nhà giáo được quan niệm là một nguồn lực quan trọng của nhà nước cần được bồi dưỡng và phát triển. Hai mô hình này bổ sung cho nhau, trong đó mô hình quản lý nhân sự được thể chế hóa trong Luật Viên chức với đặc trưng là tiếp cận từ trên xuống, lấy nhà quản lý là trung tâm, nhà giáo là đối tượng quản lý; còn mô hình quản lý nguồn nhân lực được thể chế hóa trong Luật Nhà giáo với đặc trưng là tiếp cận từ dưới lên, lấy nhà giáo là trung tâm, coi đó là nguồn lực quan trọng nhất của giáo dục cần được phát triển để bảo đảm thực hiện sứ mệnh và mục tiêu của giáo dục", TSKH. Phạm Đỗ Nhật Tiến chia sẻ.
Nhà giáo cần được quản lý bằng mô hình quản lý nguồn nhân lực
Nhìn nhận về mô hình quản lý giáo viên tại Việt Nam, ông Tiến cho rằng, trong thể chế giáo dục nước ta, từ Luật Giáo dục 1998 đến Luật Giáo dục 2019, trong chương quản lý nhà nước về giáo dục luôn có 3 quy định sau: Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục; Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục; Bộ, cơ quan ngang Bộ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm phối hợp với Bộ GD&ĐT thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục.
Tuy nhiên, khi cụ thể hóa các quy định trên thì thực tế hiện nay là, trong sự thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục đó, Bộ GD&ĐT chỉ có quyền trong thống nhất quản lý về chuyên môn của giáo dục; Bộ Nội vụ thống nhất quản lý về nhân sự của giáo dục; Bộ Tài chính thống nhất quản lý về tài chính của giáo dục. Tức là tuy Bộ GD&ĐT có trọng trách trước Nhà nước và xã hội trong việc thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục nhưng lại không có quyền gì trong những quyết định liên quan đến hai nguồn lực quan trọng nhất để tổ chức thực hiện là tiền và người.
Sự phân công trách nhiệm như vậy giữa Bộ GD&ĐT và Bộ Nội vụ trong quản lý nhà nước về nhà giáo là đặc trưng của mô hình quản lý nhân sự, phù hợp với mô hình quản lý nhà nước truyền thống về giáo dục khi Nhà nước giữ vai trò vừa là người cầm lái vừa là người chèo thuyền.
Tuy nhiên, từ hơn hai chục năm nay, trong bối cảnh hình thành và phát triển thị trường giáo dục, khi mô hình quản lý nhà nước về giáo dục ở nước ta đã từng bước chuyển sang mô hình quản lý công mới, theo đó nhà giáo phải được coi là nguồn lực quan trọng cần được điều chỉnh trong một khung pháp lý kiến tạo, thì mô hình quản lý nhân sự như trên không còn phù hợp.
"Chính mô hình quản lý này là một trong những nguyên nhân chính khiến bài toán xây dựng đội ngũ nhà giáo đủ về số lượng, hợp lý về quy mô đến nay vẫn chưa có lời giải thỏa đáng. Cần thay thế nó bằng mô hình quản lý nguồn nhân lực. Trong đó, Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ GD&ĐT, Bộ LĐTB&XH tham mưu, trình cấp có thẩm quyền quyết định số lượng và giao chỉ tiêu biên chế cho ngành Giáo dục, giám sát và đánh giá việc tổ chức thực hiện. Bộ GD&ĐT, Bộ LĐTB&XH có trách nhiệm phân bổ chỉ tiêu biên chế cho các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, chỉ đạo việc tổ chức thực hiện trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được giao", TSKH. Phạm Đỗ Nhật Tiến đề xuất.
Phương Liên