Loại củ được ví như 'vàng trắng' dưới lòng đất, Việt Nam tăng mua 9 triệu tấn từ Campuchia

Admin

Đây là loại củ Việt Nam đang đứng trước những cơ hội lớn từ thị trường quốc tế, song cũng đối diện nhiều sức ép buộc phải chuyển hướng sang mô hình phát triển bền vững.

Loại củ đó chính là sắn. Sắn được coi là ‘vàng trắng’ bởi giá trị xuất khẩu mang về hàng tỷ đô cho Việt Nam.

Thống kê của Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho thấy, nhu cầu nhập khẩu sắn lát từ Campuchia dự kiến tiếp tục tăng trong vụ 2025/2026. Gần đây, Liên đoàn Sắn Campuchia và Hiệp hội Sắn Việt Nam đã ký biên bản ghi nhớ (MoU) hợp tác toàn diện về sản xuất – chế biến – thương mại. Theo đó, khoảng 9 triệu tấn sắn tươi mỗi năm từ Campuchia sẽ được chuyển sang Việt Nam để chế biến và tái xuất.

Trong khi đó, xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn của Việt Nam vẫn tăng trưởng ấn tượng. Chỉ trong 10 tháng năm 2025, Việt Nam xuất khẩu 3,34 triệu tấn, trị giá 1,03 tỷ USD, tăng gần 60% về lượng so với cùng kỳ. Riêng sắn lát và tinh bột sắn sang thị trường Trung Quốc  khách hàng lớn nhất  đạt 3,16 triệu tấn, trị giá hơn 962 triệu USD.

Ngoài Trung Quốc, một tín hiệu đáng chú ý là thị trường Hàn Quốc. Tháng 10/2025, lượng xuất khẩu sang thị trường này tăng đột biến tới 1.573% so với cùng kỳ, dù tính chung 10 tháng vẫn giảm so với năm trước, phản ánh nhu cầu chưa ổn định. Điều này cho thấy Việt Nam cần chiến lược dài hạn để giữ thị trường truyền thống đồng thời khai mở thị trường mới.

Loại củ được ví như 'vàng trắng' dưới lòng đất, Việt Nam tăng mua 9 triệu tấn từ Campuchia- Ảnh 1.

Thu hoạch sắn (ảnh minh họa).

Thúc đẩy tái cơ cấu ngành sắn

Việt Nam hiện đứng thứ 5 thế giới về năng suất sắn, với tổng diện tích trồng dao động 520.000–550.000 ha, sản lượng hơn 10 triệu tấn mỗi năm. Cả nước có 140 nhà máy chế biến, chủ yếu ở Đông Nam Bộ, tổng cộng suất thực tế hơn 9 triệu tấn củ tươi/năm.

Dù vậy, chuỗi sản xuất sắn hiện chưa thật sự bền vững. Tỷ lệ sử dụng giống kháng bệnh khảm lá còn thấp; kỹ thuật canh tác chưa phù hợp từng vùng sinh thái; liên kết giữa nông dân – doanh nghiệp lỏng lẻo; cơ giới hóa hạn chế; vùng nguyên liệu manh mún và dễ bị tổn thương bởi biến đổi khí hậu.

Để giải quyết những bất cập này, Bộ Nông nghiệp và Môi Trường đã phê duyệt: Đề án “Phát triển bền vững ngành hàng sắn đến năm 2030, tầm nhìn 2050” một định hướng quan trọng giúp ngành thoát khỏi mô hình tăng trưởng theo chiều rộng, chuyển sang sản xuất xanh, hiệu quả cao.

Theo mục tiêu đến năm 2030: Sản lượng sắn tươi đạt 11,5 – 12,5 triệu tấn; 85% sản lượng được đưa vào chế biến sâu (tinh bột, ethanol, mì chính…); 40–50% diện tích dùng giống đúng tiêu chuẩn; 50% diện tích áp dụng quy trình canh tác bền vững; Kim ngạch xuất khẩu đạt 1,8 – 2,0 tỷ USD.

Đến năm 2050, tỷ lệ diện tích trồng sắn theo hướng bền vững tăng lên 70–80%, lượng sắn phục vụ chế biến sâu trên 90%, xuất khẩu đạt 2,3 – 2,5 tỷ USD.

Canh tác bền vững và chế biến tuần hoàn

Để đạt được mục tiêu theo đề án đề ra các chuyên gia nhấn mạnh một loạt giải pháp: Quy hoạch vùng nguyên liệu ổn định, đặc biệt tại các vùng đất dốc, đất nghèo dinh dưỡng; Mở rộng diện tích gieo trồng giống sắn kháng bệnh, giống sạch bệnh để kiểm soát bệnh khảm lá – nguy cơ lớn nhất hiện nay; Phát triển mô hình canh tác bền vững, tiết kiệm phân bón, hạn chế xói mòn đất; Liên kết sản xuất theo chuỗi giữa nông dân – hợp tác xã – doanh nghiệp – nhà máy chế biến; Ứng dụng công nghệ chế biến tuần hoàn, tận dụng tối đa phụ phẩm (bã sắn, vỏ sắn) để sản xuất thức ăn chăn nuôi, phân bón hữu cơ, giảm phát thải và gia tăng giá trị.

Ngoài ra, cần đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, giảm phụ thuộc vào Trung Quốc và hướng tới thị trường Hàn Quốc, Nhật Bản, châu Âu. Dù thị trường quốc tế mở ra nhiều cơ hội, ngành sắn Việt Nam cần bước đi quyết liệt để tăng năng lực cạnh tranh. Chỉ khi đẩy mạnh giống kháng bệnh, nâng cao năng suất theo hướng bền vững, mở rộng chế biến sâu và hoàn thiện logistics Việt Nam mới có thể duy trì tăng trưởng trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt và biến động thị trường khó lường.