Đông Anh là một trong số những vùng đất hội tụ nhiều tinh anh văn hóa của khu vực đồng bằng sông Hồng. Từ truyền thuyết về một thời kỳ dựng nước sơ khai đến những bằng chứng vật chất về một tòa thành độc đáo hay cả câu chuyện tình bi ai của Mỵ Châu - Trọng Thủy và nỗi niềm day dứt khôn nguôi của bao bậc hiền minh khi suy tư về phép đối nhân xử thế giữa con người với con người, giữa quốc gia với với quốc gia.
Cho đến tận bây giờ, chúng ta vẫn ngỡ ngàng khi tình cờ bắt gặp những di vật khảo cổ độc đáo hay lắng nghe những truyền thuyết ly kỳ, huyền ảo và đẹp đẽ về thần Kim Quy, đức vua An Dương Vương và nàng công chúa Mỵ Châu.
Trong nhịp sống hối hả thời hiện đại, Đông Anh vẫn mang trong mình những mạch ngầm của ký ức bao thời đại, những trầm tích văn hóa, lịch sử và tiếng nói vọng về của tâm hồn người Việt.

Đền Cổ Loa nhìn từ trên cao.
Nói đến Đông Anh là nhắc đến Cổ Loa - cụm di tích cấp quốc gia đặc biệt. Tương truyền, từ thế kỷ thứ III trước Công nguyên, Thục Phán - An Dương Vương thống nhất Âu Việt, Lạc Việt, lập ra nước Âu Lạc, dời đô về Cổ Loa, biến nơi đây trở thành tổ hợp kinh thành - quân thành - thị thành đầu tiên của nước ta.
Trải qua những biến thiên của thời cuộc, những dấu tích của kinh đô Cổ Loa xưa vẫn còn hiển hiện như nhắc nhớ về thời mở nước của dân tộc. Đến khu di tích Loa Thành, du khách cảm nhận được cảnh quan thiên nhiên khoáng đạt của làng quê Việt với hào nước, sông ngòi, gò đống. Khu vực thành nội có nhiều di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật như khu đền Thượng thờ An Dương Vương, đình Ngự Triều, am thờ Mỵ Châu và chùa Bảo Sơn.
Đền thờ An Dương Vương còn gọi là đền Thượng đứng trên một quả đồi xưa có cung thất của vua. Ngay trước đền thờ là một hồ hình bán nguyệt, giữa có giếng Ngọc. Truyền thuyết cho rằng sau khi Triệu Đà đánh bại An Dương Vương và ăn mừng chiến thắng, vì nhớ thương vợ mà Trọng Thủy ra giếng ngồi khóc và than rằng: “Thà rằng thác xuống cả đời. Còn hơn sống ở trên đời xa nhau”, rồi lao mình xuống giếng tự vẫn. Từ đó, giếng Ngọc trở thành biểu tượng của câu chuyên tình yêu giữa Mỵ Châu – Trọng Thủy, đồng thời là lời nhắc nhở về bài học lịch sử quý giá.
Quanh hồ có rất nhiều ghế đá ngồi nghỉ chân dưới các tán cây lớn để tận hưởng không gian mát mẻ trong lành. Ngay cửa đền có một cặp rồng đá uốn khúc sinh động với nghệ thuật điêu khắc thời Lê. Bên trong cảnh vật im ắng, cây cối vườn phía sau xanh tốt. Nhà bia nhỏ với vòm mái cong cong, ẩn dưới những tán đa. Ở đây có ba bia đá cổ khắc năm 1606. Đền thờ An Dương Vương gồm nhiều cửa, đi vào khu vực chính là điện thờ vua, nằm phía trong hai bên là thờ hoàng hậu và thờ Mẫu.
Đình Ngự Triều được xây dựng trên nền điện thiết triều cũ, năm 1907 thời Nguyễn. Dáng vóc vững chãi, bề thế, mái đao vút cong. Tại đây trưng bày nhiều di tích khảo cổ có giá trị quan trọng.
Đến Cổ Loa có một nơi mà du khách không thể bỏ qua đó là am thờ Mỵ Châu. Đó chỉ là một am nhỏ nằm khiêm tốn dưới gốc đa với vẻ u tịch như muốn gợi về câu chuyện tình ngang trái cách đây hàng ngàn năm.
Có lẽ, cả khu di tích Cổ Loa nói chung và am Mỵ Châu nói riêng không chỉ nổi tiếng bởi kiến trúc cổ, những hiện vật khảo cổ có giá trị mà còn bởi mối tình bi thương nổi tiếng Mỵ Châu - Trọng Thủy. Phải chăng vẻ huyền bí của Loa thành được tăng thêm một phần bởi những truyền thuyết nửa hư nửa thực ấy.

Lễ hội rước vua giả tại đền Sái, xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh.
Bên cạnh Cổ Loa, Đông Anh có quần thể di tích đền Sái - đình Nhội, đền thờ Hoàng giáp Lê Tuấn Mậu. Đây là cụm di tích có liên quan mật thiết với Cổ Loa. Truyền thuyết về núi Thất Diệu có tinh gà trắng đêm đêm quấy nhiễu, khiến thành Cổ Loa cứ xây xong lại đổ, rồi xuất hiện thánh Huyền Thiên Trấn Vũ diệt tinh gà trắng giúp vua Thục xây xong thành ốc mãi đi vào tâm khảm của mỗi người dân Đông Anh. Cụm di tích với lối kiến trúc độc đáo trong một không gian thiêng lại được gắn với lễ hội có một không hai ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, hội rước vua giả.
Cụm di tích Đào Thục còn gắn với nghệ thuật múa rối nước dân gian cổ truyền với ông tổ nghề Đào Đăng Khiêm có từ hơn 400 năm về trước. Vùng đất năm làng Giỗ, ba làng Quậy của xã Liên Hà, đất làng Dộc của Dục Tú, vùng tổng cói của Đông Hội, Mai Lâm, vùng Xuân Nộn, Tiên Dương... còn lưu giữ những di tích cổ kính có giá trị về lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật.
Đặc biệt, ở đình Thạc Quả, xã Dục Tú, đình Lỗ Giao, xã Việt Hùng còn lưu lại kiến trúc các mảng chạm dân gian với chủ đề: tiên cưỡi rồng, tượng Phật hoa sen, vũ nữ nhảy múa, nhạc công thổi sáo, tứ linh, tứ quý... mang phong cách nghệ thuật thời Mạc thế kỷ XVI.
Về giá trị sử liệu học, văn bản học, các di tích còn giữ được số lượng nhiều bia đá thời Lê - Nguyễn như: chùa Chài, đình Vân Điềm, chùa Thượng Lão, chùa Tiên Hội, đình Lương Quy, đền Sái, di tích Cổ Loa, chùa Đào Thục... Di tích ở các xã Tàm Xá, Đông Hội, Mai Lâm, Xuân Nộn, Dục Tú, Liên Hà, Cổ Loa, Xuân Canh còn giữ được số lượng lớn các sắc phong của các triều đại.

Nét chạm trổ ở đình Thái Bình, thôn Thái Bình, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội.
Tồn tại song hành với lịch sử, các di tích cách mạng kháng chiến tại Đông Anh đã ghi dấu ấn vẻ vang của quân, dân Đông Anh trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX, cùng hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ.
Hệ thống di tích cách mạng an toàn khu của Trung ương thời kỳ tiền khởi nghĩa (1941 - 1945) như: làng Chài, làng Bỏi, làng Ngọc Giang, gốc gạo Ba Đê, bến xe Vạn Lộc, làng Sằn... đều là những cơ sở cách mạng đáng tin cậy, đã từng nuôi dưỡng, giúp đỡ các đồng chí lãnh đạo của Đảng, đội công tác ATK của Trung ương. Các di tích liên quan đến cuộc kháng chiến chống Pháp phải kể đến pháo đài Xuân Canh đã nã những phát súng đầu tiên mở màn những ngày toàn quốc kháng chiến.
Địa đạo - làng kháng chiến Nam Hồng với hệ thống giao thông hầm xuyên lòng đất, hệ thống hào lũy, hầm chông làm kinh hoàng giặc Pháp. Hệ thống di tích lưu niệm trên địa bàn huyện còn phải kể đến những di tích lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh với Đông Anh.
Ngoài ra, còn một di tích khá quen thuộc với giới văn đàn đó là nơi sinh trưởng, hoạt động của nhà văn, nhà báo Ngô Tất Tố tại làng Lộc Hà, xã Mai Lâm. Nơi đây, Ngô Tất Tố đã viết các tác phẩm nổi tiếng đã ra đời như: Tắt đèn, Lều chõng, Việc làng, cùng các tác phẩm được dịch từ chữ Hán như: Kinh Dịch, Cẩm Hương đình, các bài văn, bài báo cách mạng...
Không chỉ có những di tích nổi tiếng, Đông Anh còn là nơi sản sinh và lưu giữ nhiều giá trị văn hóa phi vật thể đặc sắc.
Làng Đào Thục hiện nay vốn được coi là vùng tổ nghề của múa rối nước vùng Bắc Bộ. Hơn 300 năm phát triển, với trên 20 tích trò cổ, múa rối nước của làng Đào Thục là một loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian truyền thống độc đáo. Múa rối nước có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, mang khát vọng về cuộc sống bình yên, hạnh phúc, ca ngợi lao động, tôn vinh giá trị đạo đức, tình cảm cộng đồng; đồng thời, phản ánh bối cảnh lịch sử, đời sống văn hóa nhiều thời kỳ.

Nằm ven sông Hồng, sông Đuống, Đông Anh mang đặc trưng văn hóa của vùng cư dân lúa nước.
Nghệ thuật hát ca trù ở Lỗ Khê được hình thành, phát triển khoảng gần 600 năm về trước. Loại hình nghệ thuật này được ví như không gian sống - nơi các nghệ nhân vẫn truyền nghề cho lớp trẻ, nơi tiếng phách, tiếng đàn như vọng lại từ một thời đại vàng son của nghệ thuật bác học Việt Nam.
Rời Đào Thục đến thôn Lỗ Khê, xã Liên Hà, sẽ bắt gặp những cánh đồng vàng trĩu bông mỗi độ đến mùa thu hoạch, mùi thơm nồng của gạo nếp từ những chiếc bánh chưng truyền thống, hay những câu hát ca trù nổi tiếng cả vùng. Liên Hà còn nổi tiếng với nghề mộc. Ngoài ra, Đông Anh còn một số lễ hội gắn với các trò chơi dân gian độc đáo, náo nhiệt, mang tính trí tuệ cao, mang nét đặc thù văn hóa lúa nước...
Đông Anh đang trong nhịp sống hiện đại mới. Những tòa nhà cao tầng đang mọc lên. Những tuyến đường hiện đại mở rộng. Những khu đô thị thông minh được quy hoạch. Nhưng lạ thay - giữa tất cả sự phát triển đó - tâm hồn, cốt cách của Đông Anh xưa vẫn còn nguyên đó, như một dòng sông âm thầm chảy dưới lòng đất, nuôi dưỡng cây đời hiện đại mọc lên xanh tốt.
Với những trầm tích lịch sử, văn hóa lâu đời, Đông Anh đang góp phần thắp sáng cho một Hà Nội mới - văn hiến, văn minh, hiện đại.
Mạnh Quốc - Hữu Thắng