
Thầy Nguyễn Trần Vỹ, người từng không có ý định theo nghề giáo, nhưng đã có hơn 25 năm bám bản.
Từ chiếc khăn quàng đầu tiên đến hàng chục điểm trường và cầu treo
Ngày đầu tiên nhận nhiệm vụ, thầy đi bộ 6 tiếng vào điểm trường. Trường lúc ấy chỉ là vài gian nhà tạm, chưa đúng nghĩa là trường. Gió lùa qua vách, bàn ghế thưa thớt, học sinh đi chân trần, nhiều em không đủ áo ấm.
"Lúc đó tôi không thích nghề giáo. Tôi nghĩ, chắc rồi mình bỏ. Nhưng rồi tự hỏi: mình bỏ, thì sống bằng gì, và học trò sẽ ra sao?", thầy kể lại.
Từ suy nghĩ đó, thầy chọn ở lại. Nhưng ở lại, không phải chỉ để dạy, mà để tìm cách thay đổi. Nơi đây thiếu đủ thứ, thầy bắt đầu đi xin, xin khăn quàng, xin sách, xin cây bút. Dần dần, thầy gọi đó là hành trình ‘cái bang’, nhưng mục đích không phải để mình có, mà để học trò và thầy cô nơi đây có điều kiện học tập, sinh hoạt tốt hơn.
"Không biết từ khi nào, mình bước vào hành trình ‘cái bang’. Nhưng không phải để mình có, mà để học trò có cái để học, thầy cô có chỗ ở, trường có cây cầu, có nước sạch", thầy cười.
Những ngày đầu, chẳng ai tin một thầy giáo miền núi có thể làm được những chuyện tưởng như xa vời: xây trường, làm cầu, khoan giếng, dựng nhà, lo học bổng, kết nối phẫu thuật tim cho học trò… Nhưng thầy cứ làm.

Ngày qua ngày, công sức của thầy đã đem lại những thành quả ngọt ngào.
Không có bản kế hoạch nào cho hành trình ấy. Nhưng rồi càng đi, càng thấy có quá nhiều điều "không lẽ cứ để thế". Thế rồi từ một chiếc khăn, thầy đi xin thêm áo ấm, sách vở, rồi những thứ to hơn: mái trường, cây cầu, giếng nước… Dần dần, hình ảnh người thầy với chiếc balô cũ, đi qua những con đèo, trở thành quen thuộc với nhiều người tử tế ở khắp nơi.
Những năm qua, hành trình "cái bang" ấy đã kết nối biết bao tấm lòng, để cùng tạo nên những đổi thay rất thật.
15 điểm trường với 28 phòng học và 15 nhà công vụ (≈ 8,5 tỷ đồng)
21 cây cầu treo qua suối cho học sinh mùa mưa lũ (≈ 3 tỷ đồng)
23 căn nhà cho học sinh nghèo (≈ 2,3 tỷ đồng)
6 giếng nước và 8 hệ thống lọc nước (≈ 1,1 tỷ đồng)
1.600 suất học bổng và trang thiết bị học tập
Nuôi 12.000 học sinh mầm non & tiểu học thông qua Dự án "Nuôi Em"
Điều phối các chương trình phẫu thuật tim, hở hàm ếch, dị tật bẩm sinh, xe 0 đồng…
Những con số ấy không nói hết, nhưng từ chiếc khăn quàng đầu tiên thầy đi xin, giờ đã thành nhiều ‘điều có thật’, minh chứng cho một hành trình gieo chữ, gieo hy vọng, giữa những ngọn núi quanh năm mây phủ
Nhờ làm mọi việc minh bạch, đúng đối tượng, rõ ràng, thầy dần nhận được niềm tin từ nhiều người. Không còn đi một mình nữa, nhiều nhóm thiện nguyện và các mạnh thường quân bắt đầu tìm đến, cùng đồng hành. Từ đó, Câu lạc bộ Kết nối Yêu thương Nam Trà My ra đời, trở thành nhịp cầu nối tấm lòng với những ngôi trường nhỏ giữa núi rừng.

Thầy Vỹ cùng đồng nghiệp vượt qua con đường lầy lội để đến điểm trường PTDT Bán trú Tiểu học Ngọc Linh
Những nụ cười và câu chuyện không quên trên con dốc Trà My
Nhớ lại năm 2018, khi cùng nhóm bạn và bà con vào điểm trường Răng Chuỗi, nay là xã Trà Tập - Đà Nẵng, có một hình ảnh khiến thầy không bao giờ quên: Một người mẹ vừa địu con trước ngực cho bú, vừa cõng trên vai bao xi măng nặng, đi bộ suốt nhiều giờ để giúp làm trường. Thầy rơi nước mắt khi nhìn thấy bé khát sữa, chờ mẹ từ sáng đến gần 4 giờ chiều. Thầy xúc động chia sẻ, "Lâu nay cứ bảo họ không quan tâm con cái, nhưng thật ra họ quan tâm còn hơn chữ ‘quan tâm’. Họ vất vả tất cả chỉ để ngôi trường của con được tươm tất hơn, đẹp hơn".
Còn với học trò, ký ức khiến thầy xúc động nhất là năm 2004, khi thầy chỉ là Tổng phụ trách Đội. Thời điểm ấy, giáo viên chủ nhiệm nhiều khi không có học sinh đến thăm nhân ngày 20/11, phần vì các em khó khăn, phần vì chưa quen đi thăm thầy cô vào ngày này.
"Nhưng năm ấy, có cô học trò nhỏ đến thăm mình. Trên tay em là một con gà con và một túi gạo nhỏ. Mình nhận và hỏi vui: ‘Hôm nay ngày gì mà con tặng thầy gà với gạo? Mấy bạn khác thì tặng thầy mía, khoai…’. Em nói: ‘Dạ hôm nay là ngày của thầy. Con tặng thầy gà để thầy nuôi, gạo để cho gà ăn, mau lớn để thầy có thịt gà’. Lúc đó, mình chỉ ôm học trò, rồi hai thầy trò cùng khóc".
Ký ức ấy theo thầy suốt những năm tháng dạy học, nhắc nhở rằng tình cảm, sự quan tâm nhỏ bé đôi khi lại là động lực lớn nhất cho những ai gieo chữ nơi miền núi.

Nụ cười của mỗi em nhỏ chính là động lực để thầy đi tiếp con đường còn nhiều khó khăn.
Giữ người và giữ nghề: câu chuyện về giáo viên vùng cao
Thầy bảo, ở miền núi, người ta hay nói đến "giữ chân giáo viên", nhưng với thầy, trước khi giữ, phải khiến người ta muốn đến, muốn ở lại đã. Không chỉ bằng tình cảm, mà phải bằng sự thấu hiểu đời sống của họ. Muốn giữ chân được giáo viên thì trước hết phải thu hút họ đến những nơi đang thật sự cần họ đã. Rồi phải có chính sách đãi ngộ cụ thể, phù hợp với từng vùng: như nhà ở, đất ở, điều kiện sinh hoạt, việc làm cho người thân…
Thầy chia sẻ, "Nếu không giải quyết được bài toán cuộc sống, bài toán gia đình của họ thì dù có tâm huyết đến đâu họ cũng khó bám trụ. Thực tế, nhiều người chọn mục tiêu ‘5 năm có cái chăn lớn còn hơn 10 năm’ rồi lại rời đi. Không phải họ thiếu tình cảm với nghề, mà bởi không thể lo cho cuộc sống của chính mình và gia đình".
Còn điều gì khiến thầy tiếp tục đi tiếp, qua những con dốc, con suối, những hoài nghi? Thầy cười hiền: "Có lẽ là nụ cười của học trò. Suốt hơn 25 năm bám bản, chính những nụ cười của các em làm mình gần như bỏ sau lưng con suối, quả đồi và những nguy cơ. Hãy hướng tới những nụ cười dù hành trình còn gian khó".
Với những cống hiến xuất sắc cho ngành giáo dục, thầy Nguyễn Trần Vỹ đã nhận được nhiều phần thưởng cao quý, và năm 2025, thầy vinh dự là một trong số 60 nhà giáo tiêu biểu toàn quốc được Thủ tướng Chính phủ trao bằng khen.
Thu Trang
Link nội dung: https://phunuvathoidaivn.com/tam-long-nguoi-thay-va-nhung-nu-cuoi-sau-con-doc-a152468.html