Kiểm soát vốn ngoại, siết điều kiện đầu mối
Bộ Công Thương vừa công bố Dự thảo 7 Nghị định về kinh doanh xăng dầu, tiếp nối từ bản dự thảo 6 hồi tháng 4 năm nay. So với lần trước, dự thảo mới đã bổ sung và chỉnh sửa nhiều nội dung từ khái niệm, điều kiện kinh doanh đến cơ chế giá...
Theo đó, khái niệm “ giá bán lẻ xăng dầu ” được mở rộng, bao gồm cả giá bán tại “điểm bán xăng dầu với thiết bị quy mô nhỏ”, thay vì chỉ dừng lại ở cửa hàng bán lẻ như trước. Điều này giúp quản lý chặt tất cả đầu mối lưu thông xăng dầu, kể cả quy mô nhỏ lẻ.
Một thay đổi đáng chú ý khác là việc rút gọn khái niệm “sở hữu cơ sở vật chất phục vụ kinh doanh xăng dầu”. Nếu dự thảo 6 cho phép tính cả cơ sở vật chất thuộc công ty con mà doanh nghiệp nắm trên 50% vốn, dự thảo 7 chỉ công nhận phần sở hữu trực tiếp của chính thương nhân.
Dự thảo mới bổ sung quy định về quyền sử dụng cơ sở vật chất trong nhóm công ty. Công ty mẹ có thể dùng hạ tầng của công ty con để đáp ứng điều kiện kinh doanh, nhưng một khi đã được sử dụng thì công ty con không được tiếp tục khai thác hay cho thuê cho đơn vị khác. Quy định này nhằm ngăn chặn doanh nghiệp lớn sử dụng “một tài sản dùng nhiều lần” để lách điều kiện cấp phép.

Bộ Công Thương đề xuất nhiều quy định mới về kinh doanh xăng dầu.
Với hoạt động chuyển nhượng vốn, dự thảo 7 đã bổ sung một “cửa ải” quan trọng: Ngoài việc tuân thủ pháp luật và cam kết quốc tế, mọi thương vụ bán vốn cho nhà đầu tư nước ngoài đều phải được Bộ trưởng Bộ Công Thương cho phép. Đây là cơ chế kiểm soát nhằm ngăn chặn nguy cơ thâu tóm thị trường qua con đường góp vốn gián tiếp.
Đối với thương nhân đầu mối, hàng loạt điều kiện mới được đưa ra. Nếu ở dự thảo 6, yêu cầu tổng sức chứa chỉ dừng ở 15.000 m³, thì nay bắt buộc phải có ít nhất một kho gắn với cảng chuyên dụng, để chứng minh khả năng tiếp nhận trực tiếp nguồn hàng. Hệ thống phân phối cũng được quy định rõ ràng hơn: phải có ít nhất 40 thương nhân bán lẻ chỉ thuộc hệ thống của doanh nghiệp, thay vì chỉ ghi chung chung như trước.
Cơ chế giá từ “chi phí thực tế” sang “chi phí định mức”
Điểm nhấn lớn nhất trong dự thảo lần này chính là ở cơ chế giá . Nếu ở dự thảo 6, công thức tính giá chỉ gồm 4 yếu tố (chi phí tạo nguồn + chi phí kinh doanh + lợi nhuận + thuế GTGT), thì sang dự thảo 7, công thức được mở rộng và chi tiết hóa gồm:
Giá = Giá mua + chi phí tạo nguồn + chi phí kinh doanh định mức + lợi nhuận + thuế (gồm nhập khẩu, tiêu thụ đặc biệt, bảo vệ môi trường, GTGT và các loại khác nếu có).
Đặc biệt, thay vì dựa trên chi phí thực tế của từng doanh nghiệp, Nhà nước sẽ công bố chi phí kinh doanh định mức làm khởi điểm, điều chỉnh hằng năm theo CPI và rà soát 3 năm/lần. Trường hợp biến động bất thường, Bộ Công Thương có thể kiến nghị Thủ tướng cho phép rà soát sớm.
Thay vì cơ chế định kỳ như trước, dự thảo 7 yêu cầu thương nhân đầu mối và phân phối phải công bố giá ngay sau khi điều chỉnh, đồng thời niêm yết công khai tại cửa hàng, điểm bán, trên website và cả phương tiện truyền thông. Thương nhân bán lẻ ngoài hệ thống cũng phải thực hiện công bố ngay.
Quyền quyết định giá cũng được mở rộng hơn. Thương nhân trong hệ thống không được bán cao hơn giá do doanh nghiệp đầu mối cung ứng, trong khi thương nhân ngoài hệ thống được tự quyết theo cơ chế thị trường và pháp luật về giá. Đối với vùng sâu, vùng xa, thương nhân đầu mối được phép công bố giá cao hơn công thức tối đa 2% để bù chi phí hợp lệ đã kiểm toán.
Đặc biệt, thay vì phải kê khai giá với Bộ Tài chính như trước, giờ đây doanh nghiệp chỉ cần thông báo cho Bộ Công Thương, UBND tỉnh và Sở Công Thương. Trong trường hợp biến động bất thường, Bộ Công Thương chủ trì đánh giá, phối hợp Bộ Tài chính trình Chính phủ quyết định biện pháp bình ổn, gắn chặt với Luật Giá 2023 và dự liệu cả kịch bản thiên tai, dịch bệnh.