Trả lời:
Thực tế không có bằng chứng nghiên cứu nào về việc song ngữ ảnh hưởng đến phát triển ngôn ngữ của trẻ. Cũng không có bằng chứng nào cho thấy việc trẻ dừng bớt một ngôn ngữ sẽ cải thiện khả năng phát triển các ngôn ngữ khác.
Tất cả nghiên cứu đến nay chỉ ra rằng trẻ nói song ngữ không phát triển chậm hơn trẻ nói một ngôn ngữ chỉ bởi vì trẻ được học hai ngôn ngữ cùng một lúc. Các ngôn ngữ có thể khác nhau về cấu trúc cú pháp câu, nhiều từ dài hơn, cấu trúc âm thanh phức tạp hơn hoặc một số điểm ngữ pháp đa dạng. Bất kể những khác biệt này, trẻ em ở một độ tuổi nhất định có trí nhớ và khả năng xử lý tương tự nhau.
Trẻ có những khó khăn về phát triển ngôn ngữ cần được chẩn đoán chính xác nguyên nhân. Việc can thiệp cần dựa trên nguyên nhân hoặc các triệu chứng đó. Nếu trẻ có vẻ có vấn đề về phát triển, điều quan trọng là phải gặp các bác sĩ chuyên khoa như thần kinh, tai mũi họng, âm ngữ trị liệu, tâm lý... để có chẩn đoán và điều trị thích hợp tình trạng rối loạn.
Giống như trong quá trình phát triển ngôn ngữ đơn ngữ, trẻ nhỏ học song ngữ trước tiên sẽ tiếp thu được những gì dễ dàng trong ngôn ngữ. Đôi khi, trẻ song ngữ có thể tìm thấy một từ hoặc cấu trúc dễ dàng hơn trong cả hai ngôn ngữ và sử dụng chúng. Chẳng hạn, trẻ có thể dùng tiếng Anh để trả lời cho câu hỏi bằng tiếng Việt. Hoặc trẻ có thể gọi tên đồ vật này bằng tiếng Việt nhưng gọi đồ vật cùng phân loại khác bằng tiếng Anh.
Trẻ em song ngữ đạt được tất cả mốc ngôn ngữ trong phạm vi được gọi là giới hạn bình thường đối với trẻ đơn ngữ. Tốc độ phát triển ngôn ngữ là do vào khả năng và chất lượng tương tác của trẻ hơn là do nghe hai ngôn ngữ cùng một lúc.
Trẻ em phát triển với tốc độ rất khác nhau, càng lớn thì khả năng ngôn ngữ càng đa dạng. Vì vậy, phạm vi ngôn ngữ bình thường là rất lớn. Tuy nhiên, bố mẹ và các chuyên gia cần thời điểm nào nên quan tâm nhiều hơn và có thể thực hiện các bước để giúp đỡ một đứa trẻ đang tụt lại phía sau.
Phụ huynh có thể tham khảo các mốc phát triển dưới đây, nếu nhận thấy trẻ không đạt được bất kỳ mốc phát triển nào nên đưa trẻ đến khám càng sớm càng tốt:
6-9 tháng
Khi 6 tháng, trẻ bắt đầu bập bẹ "da da", "ba ba", "ada", biết quay lại khi được gọi tên và hiểu khi người khác nói "không". Sau đó, trẻ biết bắt chước những hành động đơn giản, như vẫy tay tạm biệt, vỗ tay, kết hợp nhiều từ và âm thanh bập bẹ với nhau hơn, như "mamama", "dadada".
9-12 tháng
Giai đoạn này, trẻ hiểu những câu hỏi đơn giản, như "ba đâu rồi". Trẻ làm theo chỉ dẫn đơn giản có sự giúp đỡ, như "đưa bóng cho mẹ". Trẻ biết kết hợp nhiều âm khác nhau, như "brmm brmm", "dabadabadaba", bắt đầu chỉ và nói để biểu thị nhu cầu và ý muốn.
12-18 tháng
Trẻ biết ít nhất một bộ phận cơ thể, hiểu nhiều từ, các chỉ dẫn đơn giản và câu hỏi có/không, như "con có uống nước không". Lúc này, trẻ cũng bắt đầu nói các từ đơn.
18-24 tháng
Giai đoạn này, trẻ biết nhiều bộ phận cơ thể hơn, hiểu những chỉ dẫn dài hơn, như "lấy ôtô lên đưa cho ba", biết nói 25 đến 50 từ đơn, bắt đầu ghép hai từ cùng nhau, như "xe của ba", "nước của mẹ", "đi tàu".
2 tuổi
Trẻ biết nói 50 đến 200 từ thường xuyên, bắt đầu ghép thêm các cụm 2-3 từ với nhau, như "thêm nước nữa", "ba đi ô tô", "mẹ đứng lên". Biết trả lời các câu hỏi đơn giản như "cái gì thế", "cún con ở đâu", làm theo các chỉ dẫn đơn giản có hai từ chính, như "bỏ xe vào túi".
3 tuổi
Trẻ hiểu các từ khác nhau, như các giới từ "trong", "trên", "dưới", nhận biết đồ vật theo công dụng, màu sắc hoặc hình dạng, như "quả bóng to màu gì". Trẻ biết nói 3 đến 5 từ trong một câu, như "búp bê đi ngủ thôi", biết đặt câu hỏi "cái gì", "ai", "ở đâu". Trẻ biết dùng các cấu trúc ngữ pháp, dù không phải câu nào cũng đúng, như "mẹ đang đi" (thì hiện tại), số nhiều (nhiều hơn một) như "hai quả bóng".
4 tuổi
Trẻ biết nói nhiều từ (khoảng 900 từ), khoảng 4 từ trở lên trong một câu. Hiểu các khái niệm "thời gian", như hôm qua, mùa hè, tuần trước. Chỉ thỉnh thoảng trẻ mới mắc lỗi ngữ pháp, nhưng thường sử dụng đúng ngữ pháp. Dùng từ khá chính xác, đã học được hầu hết các âm thanh lời nói.
5 tuổi
Có thể làm theo các chỉ dẫn gồm 3 phần, như "đứng dậy, xỏ giày của con vào và đi ra ôtô". Biết nói các câu gồm khoảng 6 từ trở lên đúng ngữ pháp. Biết nói chuyện về các sự kiện trong quá khứ, hiện tại và tương lai, như "ngày mai nhà mình sẽ đi công viên". Trẻ biết nói về cảm xúc và biểu thị ý nghĩ, như "con buồn lắm, An không chơi với con", làm cho người quen và người lạ hiểu được ý mình.
BS.CK2 Nguyễn Thanh Sang
Trưởng Khoa Phòng khám Chất lượng cao - Tâm lý, Bệnh viện Nhi đồng 2
Link nội dung: https://phunuvathoidaivn.com/tre-hoc-nhieu-ngoai-ngu-som-co-roi-loan-phat-trien-a103264.html